Tài chính-Ngân hàng-Tín dụng:
MỨC CHI HỖ TRỢ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƯỜI NGHÈO
Ngày 17/02/2014, Liên bộ Tài chính, Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 24/2014/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện Quyết định số 59/2012/QĐ-TTg ngày 24/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã nghèo giai đoạn 2013 - 2020.
Theo quy định tại Thông tư này, mức chi thực hiện các nhiệm vụ hướng dẫn; kiểm tra, giám sát; tọa đàm, sơ kết, tổng kết đánh giá việc thực hiện Quyết định số 59/2012/QĐ-TTg và các hoạt động để thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý như: Tư vấn pháp luật; tham gia tố tụng; tổ chức các đợt trợ giúp pháp lý lưu động về các xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn... được thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 209/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 30/11/2012 hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý Nhà nước; định mức tài chính hỗ trợ các hoạt động để thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý được thực hiện theo quy định tại Điều 4 Quyết định số 59/2012/QĐ-TTg.
Riêng đối với mức chi cung cấp Báo Pháp luật Việt Nam; hỗ trợ học phí cho viên chức của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước được quy định như sau: Cung cấp 01 số báo Báo Pháp luật Việt Nam/tuần báo; báo tết dương lịch, báo tết âm lịch/đơn vị/năm cho UBND và Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý các xã nghèo theo giá phát hành của báo; hỗ trợ học phí cho viên chức của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước các tỉnh có các xã nghèo tham gia khóa đào tạo nghề luật sư tạo nguồn bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý theo mức học phí hiện hành của Học viện Tư pháp với số lượng hỗ trợ 03 người/trung tâm/năm...
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/04/2014.
QUẢN LÝ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
Theo Nghị định số 16/2014/NĐ-CP ngày 03/03/2014 của Chính phủ về quản lý cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Lao động Thương binh và Xã hội, Công Thương và các cá nhân, tổ chức cung cấp thông tin phục vụ việc lập, phân tích và dự báo cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam có trách nhiệm cung cấp thông tin lập báo cáo thống kê tổng hợp các giao dịch giữa người cư trú và người không cư trú trong một thời kỳ nhất định.
Các thông tin do các Bộ và các cá nhân, tổ chức khác cung cấp bao gồm: Chủ trương, chính sách, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong từng thời kỳ liên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, lao động, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài, vay trả nợ nước ngoài ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, tình hình thực hiện các chủ trương, chính sách đó; các thông tin theo mẫu biểu báo cáo theo quy định của pháp luật và các thông tin khác theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và theo quy định tại các cuộc điều tra thống kê định kỳ hoặc đột xuất phục vụ việc lập, phân tích, dự báo cán cân thanh toán.
Cán cân thanh toán được lập và phân tích định kỳ theo quý, năm. Định kỳ vào tháng 09 hàng năm và hàng quý, Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các Bộ lập dự báo các hạng mục chính của cán cân thanh toán năm tiếp theo và xem xét, điều chỉnh dự báo cán cân thanh toán phù hợp với xu hướng diễn biến tình hình kinh tế thế giới và trong nước.
Nghị định này thay thế Nghị định số 164/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21/04/2014.
ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP VÀO VIỆT NAM PHẢI BẰNG ĐỒNG VIỆT NAM
Ngày 12/03/2014, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 05/2014/TT-NHNN hướng dẫn về việc mở và sử dụng tài khoản vốn đầu tư gián tiếp để thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam, áp dụng đối với các nhà đầu tư nước ngoài là người không cư trú thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp tại Việt nam và các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam, mà không áp dụng đối với đối tượng nhà đầu tư nước ngoài là người cư trú là tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Thông tư này chỉ rõ: Mọi hoạt động đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải được thực hiện bằng đồng Việt Nam (VND), trường hợp có nhu cầu chuyển vốn, lợi nhuận và các nguồn thu hợp pháp khác từ hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài được sử dụng VND trên tài khoản vốn đầu tư gián tiếp để mua ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép và chuyển ra nước ngoài.
Đồng thời, các giao dịch liên quan đến hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam của nhà đầu tư nước ngoài phải được thực hiện thông qua 01 tài khoản vốn đầu tư gián tiếp mở tại 01 ngân hàng được phép; trường hợp nhà đầu tư nước ngoài đang mở và sử dụng tài khoản vốn đầu tư gián tiếp tại 01 ngân hàng được phép nhưng có nhu cầu mở tài khoản vốn đầu tư gián tiếp ở 01 ngân hàng khác thì phải đóng tài khoản vốn đầu tư gián tiếp đã mở, chuyển toàn bộ số dư tài khoản sang tài khoản mới.
Cũng theo Thông tư này, số dư tài khoản vốn đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư nước ngoài không được chuyển sang tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm tại tổ chức, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 28/04/2014 và thay thế Thông tư số 03/2004/TT-NHNN ngày 25/05/2004.
Công nghiệp:
CẤP THẺ AN TOÀN ĐIỆN CHO LAO ĐỘNG VẬN HÀNH THIẾT BỊ ĐIỆN
Theo Nghị định số 14/2014/NĐ-CP ngày 26/02/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Điện lực về an toàn điện, người lao động làm công việc vận hành, thí nghiệm, xây lắp và sửa chữa đường dây điện hoặc thiết bị điện phải được huấn luyện về an toàn điện và được cấp thẻ an toàn điện. Việc huấn luyện về an toàn điện phải được thực hiện định kỳ 01 lần/năm và có kiểm tra, sát hạch xếp bậc an toàn điện.
Cũng theo Nghị định này, ngoài các hành vi bị cấm theo quy định hiện hành như: Thả diều, vật bay gần công trình lưới điện cao áp có khả năng gây sự cố điện; lắp đặt ăng ten thu phát sóng, dây phơi, giàn giáo, biển quảng cáo tại các vị trí mà khi bị đổ, rơi có thể va chạm vào công trình lưới điện cao áp..., các hành vi đào đất gây lún sụt công trình lưới điện cao áp, trạm điện; sử dụng cột điện, trạm điện để làm nhà, lều, quán, buộc gia súc hoặc sử dụng vào mục đích khác; đắp đất, xếp các loại vật liệu, thiết bị hoặc đổ phế thải vi phạm khoảng cách an toàn; đốt nương rẫy, sử dụng các phương tiện thi công gây chấn động hoặc có khả năng làm hư hỏng, sự cố công trình lưới điện, trạm điện, nhà máy điện và để cây đổ vào đường điện khi chặt tỉa cây hoặc lợi dụng việc bảo vệ, sửa chữa công trình lưới điện cao áp để chặt cây... cũng sẽ bị nghiêm cấm từ ngày 15/04/2014.
Cũng từ ngày 15/04/2014, nhà ở, công trình phụ phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân nằm ngoài hành lang bảo vệ an toàn đường dây dẫn điện trên không nhưng nằm giữa 02 đường dây dẫn điện trên không điện áp từ 500 kV trở lên, có cường độ điện lớn hơn 05 kV/m và 01 kV/m tại điểm bất kỳ ở ngoài và trong nhà cách mặt đất 01 m hoặc khoảng cách theo phương nằm ngang giữa 02 dây dẫn pha ngoài cùng gần nhất của 02 đường dây dẫn điện nhỏ hơn hoặc bằng 60 m sẽ được xem xét bồi thường, hỗ trợ và di dời.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/04/2014.
Xuất nhập khẩu:
ĐIỀU KIỆN NHẬP KHẨU Ô TÔ CỦA VIỆT KIỀU ĐÃ HỒI HƯƠNG
Ngày 12/02/2014, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 20/2014/TT-BTC quy định việc nhập khẩu xe ô tô, xe mô tô theo chế độ tài sản di chuyển của công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài đã được giải quyết đăng ký thường trú tại Việt Nam.
Nổi bật tại Thông tư này là quy định về điều kiện nhập khẩu đối với xe ô tô theo chế độ tài sản di chuyển của công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, có hộ chiếu nước ngoài hoặc giấy tờ thay hộ chiếu nước ngoài cấp còn giá trị và công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài có hộ chiếu Việt Nam và có giấy tờ thường trú do nước ngoài cấp; đã được giải quyết đăng ký thường trú tại Việt Nam theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. Theo đó, từ ngày 01/04/2014, xe ô tô nhập khẩu vào Việt Nam ngoài việc phải đáp ứng quy định tại Nghị định số 187/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 và Thông tư số 31/2011/TT-BGTVT ngày 15/04/2011, còn phải được đăng ký lưu hành ở nước định cư hoặc nước mà công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài đến làm việc ít nhất 06 tháng và đã chạy được một quãng đường tối thiểu là 10.000 km đến thời điểm ô tô về đến cảng Việt Nam.
Tương tự, xe mô tô nhập khẩu vào Việt Nam theo chế độ tài sản di chuyển cũng phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Cụ thể: Xe mô tô nhập khẩu phải đảm bảo điều kiện không quá 03 năm tính từ năm sản xuất đến thời điểm mô tô về đến cảng Việt Nam; được đăng ký lưu hành ở nước định cư hoặc nước mà công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài đến làm việc trước thời điểm công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài đã hồi hương được giải quyết đăng ký thường trú tại Việt Nam và thuộc loại được phép đăng ký, lưu hành tại Việt Nam...
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/04/2014.
CHỈ ĐIỀU CHỈNH CỘNG PHÍ BẢN QUYỀN HÀNG NHẬP KHẨU CÓ TRONG HỢP ĐỒNG
Ngày 26/02/2014, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 29/2014/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 205/2010/TT-BTC ngày 15/12/2010 hướng dẫn Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/03/2007 của Chính phủ quy định về việc xác định giá trị hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, trong đó đáng chú ý là quy định bổ sung về điều kiện điều chỉnh cộng đối với phí bản quyền, phí giấy phép liên quan đến hàng hóa nhập khẩu.
Theo đó, từ ngày 12/04/2014, việc điều chỉnh cộng phí bản quyền, phí giấy phép chỉ được thực hiện khi có đầy đủ các điều kiện sau: Người mua phải trả phí bản quyền, phí giấy phép cho việc sử dụng, chuyển giao các quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến hàng hóa nhập khẩu đang được xác định trị giá tính thuế; phí bản quyền, phí giấy phép do người mua phải trả trực tiếp hoặc gián tiếp như một điều kiện cho giao dịch mua bán hàng hóa đang được xác định trị giá tính thuế thể hiện trên hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cấp phép hoặc các thỏa thuận khác về chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ và các loại phí này chưa được tính trong giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán của hàng hóa nhập khẩu đang được xác định trị giá tính thuế.
Đồng thời, Thông tư cũng quy định chi tiết các tiêu chí xây dựng, bổ sung, điều chỉnh mặt hàng trong danh mục hàng hóa xuất khẩu rủi ro về trị giá và mức giá tham chiếu kèm theo. Cụ thể như: Hàng hóa có thuế suất thuế xuất khẩu cao; có tần suất vi phạm cao về trị giá hải quan trong khoảng thời gian đánh giá và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu; hàng hóa có rủi ro khai không đúng trị giá giao dịch nhằm mục đích gian lận thuế, trốn thuế xuất khẩu hoặc khai tăng trị giá xuất khẩu để hưởng hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa xuất khẩu...
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 12/04/2014.
Giáo dục-Đào tạo-Dạy nghề:
HẾT NĂM 2020, TRÊN 90% GIÁO VIÊN GDQP ĐẠT TRÌNH ĐỘ CHUẨN
Tại Nghị định số 13/2014/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giáo dục quốc phòng (GDQP) và an ninh ngày 25/02/2014, Chính phủ đã yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, cơ quan, tổ chức liên quan xây dựng, điều chỉnh đề án đào tạo giáo viên, giảng viên GDQP và an ninh sao cho đến hết năm 2020, có trên 70% giảng viên và trên 90% giáo viên GDQP và an ninh được đào tạo đạt trình độ chuẩn.
Trong đó, giáo viên được đào tạo đạt trình độ chuẩn phải có bằng cử nhân GDQP và an ninh hoặc bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành khác và chứng chỉ đào tạo giáo viên, giảng viên GDQP và an ninh hoặc có văn bằng 2 về chuyên ngành đào tạo giáo viên GDQP và an ninh. Đối với giảng viên được đào tạo đạt trình độ chuẩn, phải có bằng cử nhân GDQP và an ninh trở lên hoặc có bằng tốt nghiệp đại học trở lên chuyên ngành khác và chứng chỉ đào tạo giáo viên, giảng viên GDQP và an ninh và chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Trường hợp giảng viên là cán bộ quân đội, công an, phải có bằng tốt nghiệp đại học trở lên.
Ngoài ra, Nghị định cũng quy định chi tiết điều kiện để cơ sở giáo dục đại học, trường của lực lượng vũ trang nhân dân được đào tạo giáo viên, giảng viên GDQP và an ninh. Theo đó, cơ sở giáo dục đó phải có đội ngũ giảng viên cơ hữu đảm nhận giảng dạy tối thiểu 70% khối lượng của chương trình đào tạo, trong đó có ít nhất 01 giảng viên có trình độ tiến sĩ và 03 giảng viên có trình độ thạc sĩ đúng ngành đăng ký; có mặt bằng, kết cấu hạ tầng, giảng đường, thao trường, bãi tập, phòng học chuyên dùng và có thư viện, phòng tra cứu thông tin, có phần mềm và các trang thiết bị phục vụ cho việc mượn, tra cứu tài liệu...
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/04/2014.
LƯU HỌC SINH TẠI VIỆT NAM ĐƯỢC MIỄN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG
Ngày 25/02/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 03/2014/TT-BGDĐT về việc ban hành Quy chế quản lý người nước ngoài học tập tại Việt Nam (sau đây gọi là lưu học sinh) với nhiều nội dung quan trọng, đáng chú ý.
Theo quy định tại Thông tư này, lưu học sinh vào học chương trình trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ phải có văn bằng tốt nghiệp tối thiểu tương đương văn bằng tốt nghiệp của Việt Nam; đạt yêu cầu trình độ tiếng Việt theo quy định đối với từng trình độ đào tạo và chương trình đào tạo (khi đăng ký học tập, nghiên cứu, thực tập bằng ngôn ngữ khác mà cơ sở giáo dục được phép sử dụng trong đào tạo cần đạt yêu cầu về trình độ ngôn ngữ theo quy định cụ thể của từng chương trình); nếu học các khóa bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phải đáp ứng các điều kiện và tiêu chuẩn đã được thỏa thuận giữa Việt Nam với phía gửi đào tạo hoặc theo hợp đồng đào tạo đã ký kết; nếu thực tập chuyên ngành, phải đáp ứng điều kiện về học vấn và chuyên môn theo yêu cầu của cơ sở giáo dục tiếp nhận thực tập sinh; nếu học các ngành năng khiếu ngoài quy định nêu trên, phải đạt yêu cầu của các kỳ thi hoặc kiểm tra về năng khiếu theo quy định của cơ sở tiếp nhận.
Một nội dung nổi bật khác của Thông tư này là quy định lưu học sinh chương trình trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ được miễn áp dụng chuẩn ngoại ngữ đầu ra quy định với công dân Việt Nam học các chương trình tương ứng giảng dạy bằng tiếng Việt; được miễn học môn Giáo dục quốc phòng - an ninh và được lựa chọn môn học thay thế, gồm: tiếng Việt nâng cao, Văn hóa Việt Nam, Lịch sử Việt Nam…
Cũng theo Thông tư này, lưu học sinh có chứng chỉ trình độ tiếng Việt đạt yêu cầu quy định, lưu sinh đã tốt nghiệp các cấp học ở giáo dục phổ phông, trung cấp, cao đẳng, đại học, tiến sĩ bằng tiếng Việt được xét học thẳng chương trình. Nếu chưa đủ trình độ tiếng Việt để học chương trình đào tạo chính thức bằng tiếng Việt thì phải học dự bị tiếng Việt, sau đó tham dự kiểm tra trình độ tiếng Việt, nếu đạt yêu cầu sẽ được cấp chứng chỉ và vào học chương trình chính thức…
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 11/04/2014 và thay thế Quyết định số 33/1999/QĐ-BGD&ĐT ngày 25/08/1999.
ĐIỀU KIỆN TỔ CHỨC GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ CHÍNH KHÓA
Ngày 28/02/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Thông tư số 04/2014/TT-BGDĐT ban hành quy định quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống và hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa.
Theo đó, các nhà trẻ, nhóm trẻ; trường, lớp mẫu giáo, trường mầm non; trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú, dự bị đại học, trường chuyên, trường năng khiếu, trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học; các trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm ngoại ngữ, tin học, trung tâm học tập cộng đồng... muốn hoạt động giáo dục kỹ năng sống hoặc giáo dục ngoài giờ chính khóa phải đáp ứng một số điều kiện nhất định về cơ sở vật chất; giáo viên, báo cáo viên, huấn luyện viên và giáo trình, tài liệu.
Cụ thể như: Phải có phòng học, phòng chức năng có đủ ánh sáng, đảm bảo các yêu cầu về vệ sinh trường học theo quy định; có thiết bị dạy học bảo đảm an toàn, phù hợp với nội dung dạy học, hoạt động và tâm lý lứa tuổi người học; giáo viên, báo cáo viên, huấn luyện viên có đủ điều kiện về sức khoẻ, có phẩm chất đạo đức tốt, không trong thời gian bị kỷ luật từ cảnh cáo trở lên, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm và am hiểu các lĩnh vực kỹ năng sống hoặc hoạt động giáo dục có liên quan...
Cũng theo Thông tư này, trường hợp cơ sở giáo dục không triển khai hoạt động giáo dục kỹ năng sống và hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa trong thời gian 12 tháng liên tục hoặc có hành vi gian lận để được cấp phép hoạt động giáo dục kỹ năng sống, hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa, sẽ bị thu hồi Giấy phép hoạt động giáo dục kỹ năng sống và hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/04/2014.
CHÍNH THỨC BỎ ĐIỂM SÀN ĐẠI HỌC
Rất nhiều quy định mới đã được thể hiện tại Thông tư số 06/2014/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 11/03/2014, về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tuyển sinh đại học (ĐH), cao đẳng (CĐ) hệ chính quy ban hành kèm theo Thông tư số 09/2012/TT-BGDĐT ngày 05/03/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 24/2012/TT-BGDĐT ngày 29/06/2012, Thông tư số 03/2013/TT-BGDĐT ngày 20/02/2013, Thông tư số 21/2013/TT-BGDĐT ngày 18/06/2013, Thông tư số 24/2013/TT-BGDĐT ngày 04/07/2013 và Thông tư số 28/2013/TT-GDĐT ngày 16/07/2013 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trước hết, thay vì quy định điểm sàn như các năm trước đây, từ kỳ tuyển sinh ĐH, CĐ năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ xác định tiêu chí đảm bảo chất lượng đầu vào để các trường xét tuyển vào học ĐH, CĐ đối với từng khối thi, từng ngành đào tạo.
Bên cạnh đó, cũng tại Thông tư này, Bộ quy định hằng năm các trường có chỉ tiêu tuyển sinh ĐH, CĐ hệ chính quy được tổ chức 01 - 02 lần tuyển sinh với các phương thức: Thi tuyển, xét tuyển hoặc kết hợp giữa thi tuyển và xét tuyển. Riêng các trường tổ chức tuyển sinh riêng thực hiện Đề án tự chủ tuyển sinh, tự lựa chọn, quyết định phương thức tuyển sinh, ra đề thi… Đặc biệt, kết quả thi của thí sinh thi vào trường tổ chức tuyển sinh riêng chỉ có giá trị xét tuyển vào trường đó mà không có giá trị xét tuyển sang trường khác.
Một nội dung đáng chú ý khác của Thông tư này là thu hẹp các đối tượng ưu tiên theo khu vực. Cụ thể, đối tượng ưu tiên theo khu vực chỉ gồm các thí sinh là người dân tộc thiểu số có hộ khẩu thường trú tại các thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực I, II, III được quy định tại Quyết định số 447/QĐ-UBDT ngày 19/09/2013 và Quyết định số 539/QĐ-TTg ngày 01/04/2013, mà không quy định rộng theo địa phương như trước đây.
Đồng thời, Thông tư cũng bổ sung thêm đối tượng được ưu tiên xét tuyển; theo đó, ngoài thí sinh đoạt giải trong kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia thì các thí sinh đoạt giải trong Hội thi khoa học kĩ thuật do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đã tốt nghiệp trung học, sau khi thi tuyển ĐH, CĐ hệ chính quy đủ số môn quy định theo đề thi chung, có kết quả thi đáp ứng tiêu chí đảm bảo chất lượng đầu vào do Bộ quy định trở lên và không có môn nào bị điểm 0 thì Hiệu trưởng xem xét quyết định cho vào học.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/04/2014.
Thông tin-Truyền thông:
ƯU TIÊN MUA SẮM LAPTOP, ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG SẢN XUẤT TRONG NƯỚC
Theo Thông tư số 01/2014/TT-BTTTT được Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành ngày 20/2/2014 quy định chi tiết về ưu tiên đầu tư, mua sắm sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin sản xuất trong nước sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước; có 48 sản phẩm, dịch vụ trong nước được ưu tiên, mua sắm bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trong đó có máy tính cá nhân để bàn, máy tính xách tay (laptop); máy tính bảng; điện thoại di động; phần mềm kế toán; phần mềm quản lý nhân sự; thư viện số, kho dữ liệu số; nhóm dịch vụ hỗ trợ sản xuất phần mềm; nhóm dịch vụ thiết kế, duy trì trang, cổng thông tin điện tử…
Để được ưu tiên mua sắm bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, các sản phẩm, nhóm dịch vụ nêu trên phải được sản xuất tại Việt Nam bởi doanh nghiệp mà trong đó các pháp nhân, thể nhân Việt Nam nắm quyền kiểm soát chi phối và nắm giữ cổ phần chi phối hoặc nắm giữ phần vốn góp chi phối; đã được đăng ký thương hiệu và được bảo hộ theo quy định hoặc đã đăng ký và hoàn tất các yêu cầu, điều kiện để cung cấp sản phẩm, dịch vụ (nếu có) theo quy định; có tài liệu kỹ thuật hoặc tài liệu hướng dẫn sử dụng bằng tiếng Việt; có thông báo rõ ràng các điều khoản cam kết về bảo hành, trách nhiệm của nhà cung cấp, chính sách hậu mãi và các chính sách liên quan.
Đồng thời, đối với mỗi nhóm sản phẩm, dịch vụ khác nhau còn phải đáp ứng những yêu cầu cụ thể khác, như đối với sản phẩm phần cứng, điện tử (điện thoại di động, laptop…) thì doanh thu từ sản phẩm phải đạt tối thiểu 10 tỷ đồng/năm trong 02 năm liên tiếp gần nhất hoặc tối thiểu 05 cơ quan Nhà nước hoặc 10 tổ chức, doanh nghiệp hoặc 500 cá nhân đã và đang sử dụng sản phẩm; chi phí sản xuất trong nước của sản phẩm chiếm tỉ lệ từ 20% trở lên trong tổng chi phí sản xuất ra sản phẩm đó, hoặc có tối thiểu 50 lao động Việt Nam có chuyên môn về phần cứng, điện tử đang làm việc ổn định từ 01 năm trở lên; sản phẩm đã công bố phù hợp với Tiêu chuẩn Quốc gia và đã được chứng nhận, công bố hợp quy; sản phẩm được sản xuất bởi tổ chức, doanh nghiệp đạt ít nhất một trong các chuẩn: TCVN ISO 9001:2008; TCVN ISO 14001:2004; TCVN ISO 17025:2005 hoặc tương đương…
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 08/04/2014 và thay thế Thông tư số 42/2009/TT-BTTTT ngày 30/12/2009.
PHÁT TRIỂN MẠNG THÔNG TIN NGHIÊN CỨU VÀ ĐÀO TẠO QUỐC GIA
Ngày 18/02/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 11/2014/NĐ-CP về hoạt động thông tin khoa học và công nghệ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế hợp tác, tài trợ cho việc xây dựng và phát triển mạng thông tin nghiên cứu và đào tạo quốc gia.
Mạng thông tin nghiên cứu và đào tạo quốc gia là mạng viễn thông dùng riêng phi lợi nhuận kết nối cộng đồng nghiên cứu và đào tạo trong nước với nhau, với cộng đồng nghiên cứu và đào tạo khu vực và quốc tế; ưu tiên kết nối các khu vực tập trung nhiều tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, cơ sở giáo dục đại học.
Thành viên của mạng là các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, các cơ sở giáo dục đại học, các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, các bệnh viện cấp Trung ương và cấp tỉnh, các tổ chức thực hiện chức năng thông tin khoa học công nghệ và các tổ chức khác. Các tổ chức thành viên này có trách nhiệm đầu tư các trang thiết bị và công nghệ cần thiết, thực hiện nghĩa vụ tài chính để kết nối, duy trì, phát triển và khai thác hiệu quả mạng thông tin nghiên cứu và đào tạo quốc gia.
Nghị định này thay thế Nghị định số 159/2004/NĐ-CP ngày 31/08/2004 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/04/2014.
BAN HÀNH CHUẨN KỸ NĂNG SỬ DỤNG CNTT CƠ BẢN
Ngày 11/03/2014, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT quy định Chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin (CNTT), bao gồm: Chuẩn kỹ năng sử dụng CNTT cơ bản và Chuẩn kỹ năng sử dụng CNTT nâng cao.
Trong đó, yêu cầu cần đạt đối với Chuẩn kỹ năng sử dụng CNTT cơ bản bao gồm: Có kiến thức cơ bản về máy tính và mạng máy tính; hiểu các dịch vụ Internet khác nhau cho người dùng; biết một số loại bệnh tật thông thường liên quan đến việc sử dụng máy tính lâu dài như bệnh về mắt, xương khớp, tâm thần và cách phòng ngừa; biết các quy tắc an toàn khi sử dụng máy tính và các thiết bị kèm theo; biết một số quy định cơ bản về luật pháp của Việt Nam liên quan đến quyền bảo vệ dữ liệu, trách nhiệm quản lý, bảo vệ dữ liệu ở Việt Nam...
Thông tư này áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia trực tiếp hoặc có liên quan đến hoạt động đánh giá kỹ năng sử dụng CNTT và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 28/04/2014.
Doanh nghiệp:
ĐẠI DIỆN ỦY QUYỀN VỐN NHÀ NƯỚC PHẢI CÓ KINH NGHIỆM ÍT NHẤT 3 NĂM
Ngày 14/02/2014, Bộ Tài chính đã ra Thông tư số 21/2014/TT-BTC ban hành Quy chế hoạt động của người đại diện theo ủy quyền đối với phần vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp (DN), trong đó, đáng chú ý là quy định về tiêu chuẩn và điều kiện người đại diện theo ủy quyền đối với phần vốn Nhà nước đầu tư vào DN.
Cụ thể, người đại diện theo ủy quyền phải đảm bảo các tiêu chuẩn và điều kiện như: Là công dân Việt Nam, thường trú tại Việt Nam; có đủ năng lực hành vi dân sự; có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khoẻ đảm đương nhiệm vụ; hiểu biết pháp luật, có ý thức chấp hành luật pháp; có trình độ chuyên môn bậc đại học trở lên, có khả năng, kinh nghiệm thực tế từ 03 năm trở lên về quản lý tài chính DN, về kinh doanh và tổ chức quản lý DN phù hợp với yêu cầu của vị trí được ủy quyền làm người đại diện; không là vợ, chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của người quản lý, điều hành DN có phần vốn góp của Nhà nước và của người có thẩm quyền quyết định việc ủy quyền làm người đại diện; không thuộc đối tượng bị cấm quản lý DN theo quy định của pháp luật...
Trường hợp người đại diện tham gia vào Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc/Giám đốc DN phải có đủ tiêu chuẩn và điều kiện tương ứng với chức danh đó theo quy định của Luật DN; Điều lệ của DN; các tiêu chuẩn của chức danh lãnh đạo, quản lý theo quy định của Luật Cán bộ công chức đối với người được cử làm đại diện tại các DN có phần vốn góp của Nhà nước.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/04/2014.
BAN HÀNH ĐIỀU LỆ MẪU CÔNG TY TNHH MTV CỦA NHÀ NƯỚC
Ngày 14/03/2014, Chính phủ đã ra Nghị định số 19/2014/NĐ-CP ban hành Điều lệ mẫu của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH MTV) do Nhà nước làm chủ sở hữu.
Theo quy định tại Nghị định này, vốn điều lệ công ty do chủ sở hữu công ty đầu tư hoặc cam kết đầu tư và được ghi bằng số và bằng chữ tại Điều lệ công ty ở thời điểm được phê duyệt; vốn điều lệ có thể tăng trong quá trình hoạt động. Chủ sở hữu công ty phê duyệt tăng vốn điều lệ cho công ty căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược phát triển và mở rộng quy mô, hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc thù hoạt động của công ty. Mức vốn điều lệ điều chỉnh tăng thêm được xác định tối thiểu cho 03 năm kể từ năm quyết định điều chỉnh vốn điều lệ. Trong đó, Bộ trưởng quyết định tăng vốn điều lệ đối với công ty thuộc Bộ sau khi có thỏa thuận bằng văn bản của Bộ Tài chính và Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định tăng vốn điều lệ đối với công ty thuộc UBND cấp tỉnh.
Nghị định cũng quy định, người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH MTV do Nhà nước làm chủ sở hữu có quyền quyết định và chịu trách nhiệm việc công khai thông tin ra bên ngoài của công ty. Biểu mẫu, nội dung và nơi gửi thông tin thực hiện theo các quy định pháp luật có liên quan. Trường hợp có yêu cầu thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền, người đại diện theo pháp luật của công ty là người chịu trách nhiệm trong tổ chức cung cấp thông tin theo đúng quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 29/04/2014.
Đất đai - Nhà ở:
BỎ QUY ĐỊNH TÍNH DIỆN TÍCH CĂN HỘ CHUNG CƯ TỪ TIM TƯỜNG BAO
Nội dung điều chỉnh này được quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-BXD ngày 20/02/2014 của Bộ Xây dựng, sửa đổi, bổ sung Điều 21 của Thông tư số 16/2010/TT-BXD ngày 01/09/2010 quy định cụ thể và hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định 71/2010/NĐ-CP ngày 23/06/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn Luật Nhà ở.
Thông tư này chỉ rõ, diện tích sử dụng căn hộ chung cư chỉ được tính theo kích thước thông thủy và được ghi vào Giấy chứng nhận cấp cho người mua, bao gồm cả phần diện tích tường ngăn các phòng bên trong căn hộ và diện tích ban công, lô gia (nếu có) gắn liền với căn hộ đó, không tính tường bao ngồi nhà, tường phân chia các căn hộ, diện tích sàn có cột, hộp kỹ thuật nằm bên trong căn hộ.
Khi tính diện tích ban công thì tính toàn bộ diện tích sàn, trường hợp ban công có phần diện tích tường chung thì tính từ mép trong của tường chung. Khi bàn giao căn hộ, các bên phải ghi rõ trong biên bản bàn giao căn hộ hoặc trong phụ lục hợp đồng diện tích sử dụng căn hộ thực tế bàn giao và diện tích ghi trong hợp đồng mua bán căn hộ đã ký; biên bản bàn giao căn hộ hoặc phụ lục hợp đồng được coi là một bộ phận không thể tách rời của hợp đồng mua bán căn hộ.
Như vậy, với nội dung nêu trên, Bộ Xây dựng đã chính thức bỏ quy định tính diện tích căn hộ chung cư từ tim tường bao, tường ngăn chia các hộ như các văn bản trước đây, nhằm khắc phục tình trạng bất bình đẳng cho các hộ gia đình sở hữu căn hộ chung cư có cột, hộp kỹ thuật và hộ sở hữu căn hộ không có cột, hộp kỹ thuật khi diện tích ghi trong hợp đồng mua nhà và giá mua nhà giữa các hộ này là như nhau, nhưng diện tích thực tế sử dụng lại khác nhau.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 08/04/2014; trường hợp các bên đã ký hợp đồng mua bán căn hộ trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành thì việc xác định diện tích căn hộ để tính tiền mua bán được thực hiện theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán căn hộ mà các bên đã ký kết.
Giao thông:
TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH PHƯƠNG TIỆN CHUYÊN DÙNG CHO HOẠT ĐỘNG DẦU KHÍ
Ngoài việc là phương tiện vận tải chuyên dùng được liệt kê trong danh mục máy móc, thiết bị của dự án đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định tại Thông tư số 01/2014/TT-BKHCN ngày 18/02/2014 của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn xác định phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ, phương tiện vận tải chuyên dùng cần thiết cho hoạt động dầu khí còn phải đáp ứng một số tiêu chí khác.
Cụ thể như: Có kết cấu đặc thù, có lắp đặt các thiết bị chuyên ngành phục vụ hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển mỏ và khai thác dầu khí, kể cả các hoạt động phục vụ trực tiếp cho các hoạt động này. Trường hợp để vận chuyển sản phẩm dầu khí, phương tiện phải được lắp đặt bộ phận chứa và các thiết bị đặc biệt để vận chuyển an toàn các dạng sản phẩm dầu khí.
Cũng theo Thông tư này, phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ để tạo tài sản cố định trong các dự án đầu tư phải đáp ứng được một số tiêu chí như: Có cấu tạo, tính năng kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của dây chuyền công nghệ phù hợp mục tiêu, quy mô công suất của dự án đầu tư; là phương tiện cần thiết, thực hiện một chức năng cụ thể nhằm bảo đảm yêu cầu hoạt động đồng bộ của dây chuyền công nghệ và được sử dụng để phục vụ dây chuyền công nghệ, không thực hiện chức năng vận tải khác... Trường hợp có di chuyển ra ngoài khu vực lắp đặt dây chuyền công nghệ thì chỉ di chuyển theo tuyến đường, không gian đã được xác định trước theo mục tiêu hoạt động của dự án đầu tư.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/04/2014.
Dân sự:
QUY ĐỊNH PHẠM VI HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
Ngày 27/02/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở, trong đó hướng dẫn cụ thể về phạm vi hòa giải ở cơ sở.
Theo đó, hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, giờ giấc sinh hoạt…); tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất; tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình (tranh chấp từ quan hệ vợ, chồng; cha mẹ và con; ông bà và cháu; giữa anh chị em…; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn…); vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm đó chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính; vi phạm pháp luật hình sự khi vụ án không bị khởi tố theo quy định Điều 107 Bộ luật Tố tụng Hình sự hoặc vụ án được pháp luật quy định chỉ khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nhưng người bị hại không yêu cầu hoặc vụ án đã được khởi tố nhưng sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án và các vụ án trong các trường hợp này không bị xử lý hành chính và vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính. Đồng thời, biện pháp hòa giải ở cơ sở còn được áp dụng trong những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm.
Ngoài ra, Nghị định cũng quy định không hòa giải ở cơ sở đối với các trường hợp mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình theo quy định phải được cơ quan có thẩm quyền giải quyết; giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; tranh chấp về thương mại hoặc lao động thực hiện hòa giải theo quy định của Luật Thương mại, Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn…
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/04/2014 và thay thế Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999./.